Bệnh loét phá hại cam, quýt thường làm rụng quả và lá, cây cằn cỗi chóng tàn. Ở vườn ươm, khi bị bệnh nặng cây con dễ chết, quả bị bệnh phẩm chất kém không thể xuất khẩu và cất trữ được. Ở nước ta, bệnh phá hại phổ biến tại tất cả các vùng trồng cam, quýt, gây thiệt hại đáng kể cho người trồng, làm ảnh hưởng lớn tới nguồn hàng xuất khẩu.
Triệu chứng gây bệnh
Ở lá non, triệu chứng bệnh ban đầu là những chấm nhỏ có đường kính trên dưới 1mm, màu trong vàng, thường thấy ở mặt dưới của lá, sau đó vết bệnh mở rộng và phá vỡ biểu bì mặt dưới lá, màu trắng nhạt hoặc nâu nhạt. Lá bệnh không biến đổi hình dạng nhưng dễ rụng, cây con bị bệnh nặng thường hay rụng lá. Vết bệnh ở quả cũng tương tự như ở lá: vết bệnh xù xì màu nâu hơn, mép ngoài có gờ nổi lên, ở giữa vết bệnh mô chết rạn nứt. Toàn bộ chiều dày của vỏ quả có thể bị loét, nhưng vết loét không ăn sâu vào ruột quả. Bệnh nặng có thể làm cho quả biến dạng, ít nước, khô sớm, dễ rụng. Bệnh làm cho quả xấu mã, không đạt tiêu chuẩn chất lượng để xuất khẩu. Vết bệnh trên cành và thân cây con cũng giống như ở trên lá nhưng sùi lên tương đối rõ ràng. Đặc biệt có trường hợp vết loét ở thân kéo dài tới 15cm và ở cành tới 5 – 7cm.
Bệnh phát sinh từ lộc xuân (tháng 3), tăng mạnh đến lộc hạ (tháng 7 và 8) rồi đến lộc đông (tháng 10 và 11) thì bệnh giảm dần và ngừng phát triển. Bệnh loét cam phát triển trong điều kiện nhiệt độ cao, vi khuẩn xâm nhiễm thích hợp ở nhiệt độ 25 – 30oC, độ ẩm cao. Cây bị bệnh nặng nhất là bưởi, cam rồi đến chanh, còn các giống quýt có tính chống bệnh cao với bệnh loét. Tuổi cây càng non càng dễ bị nhiễm bệnh nặng, nhất là ở vườn ươm ghép cây giống thường bị bệnh nặng trong 1 – 2 năm đầu, cam từ 5 – 6 tuổi tỉ lệ bị bệnh thấp hơn. Cành vượt phát triển nhiều lộc thường bị bệnh nặng hơn. Sau khi nảy lộc 30 – 45 ngày ở giống cam đường rất dễ bị bệnh. Khi lộc cành bước vào ổn định nhưng chưa hóa già (nảy lộc được 50 – 60 ngày) tính nhiễm bệnh cao nhất, sau khi nảy lộc 90 – 110 ngày lộc già thì hầu như không bị nhiễm bệnh nữa. Sau khi hoa rụng 35 ngày, quả non kích thước khoảng 9mm lại bắt đầu bị nhiễm bệnh; đường kính quả từ 26 – 32mm (sau hoa rụng 60 – 80 ngày) tỉ lệ phát bệnh cao nhất; khi quả ngừng lớn và bắt đầu vàng thì hầu như không nhiễm bệnh nữa. Ngoài ra, sâu bùa vẽ cũng là môi giới truyền bệnh tạo nên vết thương để bệnh xâm nhiễm dễ dàng, nhất là trong vườn ươm cây giống.
Biện pháp phòng trừ
Biện pháp quan trọng nhất là chọn giống ghép chống bệnh, tiêu diệt nguồn bệnh, biện pháp canh tác và phun thuốc bảo vệ theo một hệ thống tổng hợp.
– Tiêu diệt nguồn bệnh
Thu dọn sạch tàn dư bộ phận bị bệnh trong vườn ươm cũng như trong vườn quả; thường xuyên tỉa lá cành bị bệnh trong vườn ươm; dùng các mắt ghép không bị bệnh, gốc ghép chống chịu bệnh. Trồng cây giống không bị bệnh, cắt bỏ cành lá bị bệnh, tiêu diệt hủy bỏ những cây bị bệnh, thực hiện tốt biện pháp kiểm dịch thực vật, không chuyên chở và trồng cây giống có bệnh vào những vùng mới trồng cam.
– Phòng trừ bệnh bằng canh tác
Bón phân vào thời kỳ thích hợp, bón cân đối để cây phát triển bình thường, khống chế cành vượt, thận trọng khi tưới nước để tránh lây lan bệnh. Trồng rừng chắn gió thành giải, chắn đúng hướng gió chính của vườn ươm và vườn quả hoặc thành băng xen kẽ với hàng cây ăn quả.
– Biện pháp hóa học
Dùng thuốc hóa học (Boóc đô 1%) phun bảo vệ phòng chống bệnh từ khi ra lộc xuân được 20 ngày. Phun bảo vệ quả từ lúc hoa tàn, sau 50 – 60 ngày cần phun thuốc lặp lại để phòng trừ bệnh, trong năm có thể phun thuốc 4 lần để bảo vệ. Lần 1: phun lúc ra lộc xuân; lần 2: phun lúc rụng hoa quả non 9mm; lần 3: phun lúc có quả non 25 – 30mm; lần 4: phun vào tháng 9 – 10 nếu cần thiết. Tùy tình hình thời tiết và tốc độ phát triển bệnh mà số lần phun có thể thay đổi nhiều hoặc ít. Khi phun phải phun đều hai mặt lá, từ trong ra ngoài, từ cao xuống thấp. Mặt khác cần kết hợp phun thuốc trừ sâu bùa vẽ để hạn chế bệnh truyền lan. Ngoài ra, đã có nhiều thử nghiệm dùng chất kháng sinh ppm mỗi lần phun cách nhau 15 ngày đã cho kết quả tốt.