Phân bố và tác hại:
Bệnh mới, nhưng có tác hại lớn.
Bệnh làm cho chiều cao cây, bề dày của lá giảm nhiều, không hình thành được đòng, trổ bông. Nếu có, trổ bông lép. Bông bị bệnh ngắn, ít hạt, tỉ lệ lép cao, năng suất giảm từ 48 – 82% (tuỳ thuộc vào giống).
Triệu chứng:
– Cây lùn nhiều ít tuỳ theo thời điểm nhiễm bệnh, nếu nhiễm sớm cây lúa thấp hơn một nửa.
– Lá lúa ngắn, dày, xanh đậm, xoắn vặn hoặc nhăn nheo, rách bìa, có nhiều đốm nâu nhỏ.
– Thân dày, cứng thường đâm chồi và rễ ở những đốt trên.
– Bông bị nghẹn, xoắn vặn hạt có nhiều đốm nâu, lép lửng.
– Cây lúa trổ muộn hơn cây lúa khoẻ, có khi đến 20 ngày.
– Lúa chét thường nhiễm nặng, nếu lúa chính vụ đã nhiễm.
Quy luật biến động:
Môi giới truyền bệnh là rầy nâu (chỉ có 40% rầy nâu có khả năng truyền bệnh). Nhiệt độ thích hợp truyền bệnh: 25 – 260C. Nhiệt độ tối thích cho sự phát triển của rầy nâu. Thời vụ và mùavụ cũng ảnh hưởng khá rỏ rệt đến quá trình gây hại, nặng nhất trong vụ hè thu.
Bón nhiều N và hàm lượng N – P – K không cân đối -> bệnh nặng. Ở lúa sạ bệnh nặng hơn lúa cấy.
Ngoài lúa, kí chủ phụ: cỏ lồng vực, cỏ đuôi chuồn.Biện pháp phòng trị:
– Luân canh, sắp xếp mùa vụ hợp lý.
– Sử dụng giống kháng bệnh, kháng rầy.
– Gieo cấy đúng thời vụ, mật độ vừa phải.
– Bón phân cân đối hợp lý.
– Dùng thuốc tiêu diệt rầy: Sherpa, Bassa, Applaud.